Thứ Năm, 2 tháng 7, 2009

10 điều phải chấp nhận nếu làm ngành IT

"Dương thịnh âm suy", thường xuyên bị stress, lương tăng chậm, dễ phải lấy người cùng nghề... là những thực tế bạn phải đối mặt nếu muốn theo đuổi nghề IT.

Dưới đây là 10 thống kê vui những "nguy cơ" tiềm ẩn trong ngành IT mà bạn có thể phải đối mặt nếu quyết tâm theo đuổi nghề này, thông qua con mắt của một blogger làm trong nghề.

10 điều phải chấp nhận nếu làm ngành IT

Ảnh minh họa

1. Ở những ngành khác thì nữ vừa nhiều vừa xinh đẹp, ngành IT thì ngược lại

Điều này ai đã và đang học CNTT ở các trường ĐH đều biết rồi. Không riêng gì trong ngành CNTT mà những ngành kỹ thuật, số lượng nữ giới cũng rất thấp. Tuy nhiên so với các ngành như cơ khí, điện tử thì tỉ lệ nữ giới học CNTT cũng còn khá cao. Nhưng khi học xong và đi làm, tỉ lệ nữ giới làm lập trình lại càng giảm, đa số các bạn ấy làm QC, DB, BA… Ở nhóm tôi khoảng 20 người chỉ có mỗi 2 dev, 2 QC là nữ, còn lại toàn "đực rựa". Tuy nhiên điều an ủi là trong công ty vẫn có nhiều chị em xinh lắm, nhưng không làm ở bộ phận lập trình. Thiếu thốn này thường dẫn đến điều thứ hai.

2. Xác suất phải lập gia đình với người cùng ngành rất cao

Nghe có vẻ như hơi mâu thuẫn, đã ít nữ thì làm sao xác suất này cao được. Thế nhưng với những người làm IT thì kể từ lúc đi làm thường nhìn máy tính nhiều hơn giao tiếp với ngưòi thật nên sẽ ăn nói kém, giao tiếp kém, cơ hội gặp phụ nữ khác ngành cũng ít hơn người làm ở ngành khác nên trời kêu ai nấy dạ. Tuy nhiên chúng ta thường quen nửa cuộc đời của mình từ trong trường ĐH hoặc ở nơi làm việc nên điều này có thể cũng đúng với những người làm ở các ngành khác. Dù những người làm ở ngành IT chúng ta thường được cái thông minh, nhưng hai người thông minh thì sinh con ra chưa chắc thông minh nên đây cũng là một hiểm họa tiềm tàng. Hơn nữa, hai người cùng ngành IT giờ gặp nhau ngoài nói chuyện bug, code thì chán chết. Phải chi chàng kể chuyện bug, nàng hỏi bug là gì hở anh thì có phải thú vị hơn biết bao.

3. Bạn sẽ bị yếu đi

Điều này không có gì phải bàn cãi. Thứ nhất ngồi nhiều… thì bụng và mông sẽ to. Bụng càng to càng khó làm... nhiều thứ và tuổi thọ giảm. Ngồi nhiều còn có thể gây ra nhiều bệnh tế nhị khác. Ngoài hai bệnh đằng trước và đằng sau thì còn bệnh ở mắt do nhìn quá nhiều. Đa số người làm IT xung quanh ta đều bị cận thị. Gõ máy tính thường xuyên sẽ ảnh hưởng đến tim, rê chuột thường xuyên sẽ thoái hóa cổ tay. Ngoài ra cột sống sẽ bị chai hoặc mọc gai do tật ngồi nhiều hơn đứng của công việc này.

Ngoài ra, người làm IT thường có thói quen làm việc, sinh hoạt ban đêm. Cái giờ đáng lẽ những người ở những ngành khác làm cái việc mà ai cũng biết là việc gì thì người trong ngành IT lại gõ gõ, click click và thường gây ra bệnh đau bao tử. Tay chân ít hoạt động nên con người thường cảm thấy mỏi mệt, lười vận động, thậm chí cả lười tắm nên đừng thắc mắc tại sao một số SV ngành IT thường ở dơ. Nói chung làm cái nghề này nếu ko chịu sinh hoạt… điều độ thì đừng mong thọ.

4. Bạn sẽ thường xuyên bị làm phiền bởi người quen

Đây là một trong những điều tệ hại và khó chịu nhất bạn sẽ gặp phải. Những người quen của bạn: bạn bè, bà con, cô dì chú bác, bạn của ba của mẹ sẽ gọi điện nhờ bạn giúp khi họ không nghe nhạc được, máy khởi động chậm, không thấy webcam, không biết đưa hình lên blog. Kiểu hỗ trợ kỹ thuật miễn phí này nên cẩn thận vì nó sẽ thường xuyên lặp đi lặp lại. Một số trường hợp bạn sẽ được trả công nhưng theo tôi, bạn chẳng cần số tiền chả đáng đổ xăng đó làm gì so với thời gian phải chạy đi chạy lại. Đa số người nhờ bạn giúp sẽ mong muốn được hỗ trợ miễn phí và tôi chắc chúng ta sẽ không vui gì về điều đó. Vì vậy hãy tập nói không khi có thể.

5. Bạn sẽ phải thường xuyên về trễ mà không được trả tiền

Đặc thù của ngành IT là công việc thường không thể tính chính xác bằng giờ. Có nghĩa là không phải cứ một lượng thời gian nào đó thì sẽ làm xong một công việc. Thường chúng ta sẽ phải ở lại thêm 1 giờ, 2 giờ để làm nốt công việc của mình nếu bạn là người có trách nhiệm. Nhưng dù có trách nhiệm hay không thì khi công việc chưa xong mà đã gần đến deadline thì bạn vẫn phải ở lại để hoàn thành những gì còn dở dang, tất nhiên không có xu nào cả.

6. Bạn sẽ thường xuyên bị stress

Khi làm việc với những project lớn nhiều người, công việc sẽ theo flow rõ ràng, bạn làm, người khác test, manager gí, và khi đến những ngày cuối cùng là lúc bạn làm việc nhiều nhất. Phải suy nghĩ nhiều, cơ thể mệt mỏi, thiếu ngủ cộng với căng thẳng khi làm việc sẽ khiến nhiều người bị stress. Theo một số điều tra, thủ phạm gây stress nhiều nhất là email. Khi phải đọc khoảng 100 email một ngày thì người hiền lành cũng trở nên gắt gỏng. Bởi vậy những người làm IT thường hay khó chịu đột xuất.

7. Lương bạn sẽ tăng rất chậm

Làm IT lương khởi điểm sẽ khá cao so với một số ngành nhưng tốc độ tăng sẽ chậm và ít đột biến. Thường người làm IT sẽ giải quyết nhu cầu tăng lương bằng cách nhảy sang công ty khác. Cho nên những bạn sinh viên mới ra trường nên tìm một công ty có lương khởi điểm khá tốt, vì thông thường chu kỳ tăng lương sẽ là từng năm và khi lạm phát hai chữ số mà tăng lương dưới 15% cộng với trả lương bằng tiền Việt thì hơi bị đuối. Tốt nhất nên tìm hiểu những anh chị đi trước hoặc xác định mục tiêu của mình để tìm hướng đi khác vì làm lập trình chay khó làm giàu lắm.

8. Không phải lúc nào cũng được làm công việc ưa thích

Bạn từng nghĩ sẽ áp dụng những kỹ thuật tiên tiến nhất của các ngôn ngữ lập trình hiện đại, sẽ học hỏi những công nghệ mới nhất và làm việc với những chuyên gia đầy kinh nghiệm trong lĩnh vực CNTT nhưng thường không phải như vậy. Ở những công ty càng lớn càng có những project kỳ lạ kiểu như chuyển nguyên một chương trình từ VB6 sang C#, hoặc từ một ngôn ngữ rất cổ xưa sang C#.

Tuy đòi hỏi kiến thức lập trình trên hai ngôn ngữ, khả năng đọc hiểu code nhưng nói chung công việc như vậy khá nhàm chán và tôi nghĩ chẳng ai muốn theo đuổi lâu dài. Đối với những project lớn thì chi phí công nghệ mới là một trong những vấn đề quan tâm của khách hàng. Bạn muốn sử dụng SQL 2005 nhưng khách hàng sẽ nói “No” khi họ đã có licence cho SQL 2000 và không muốn bỏ tiền mua thứ mới. Bạn muốn sử dụng ASP.NET để làm website cho khách hàng nhưng họ cho rằng PHP sẽ rẻ hơn vì không tốn nhiều licence cho máy chủ WINDOWS. Bạn muốn dùng ORM tool để tiết kiệm thời gian lập trình nhưng khách hàng nhất quyết bạn phải dùng Store Procedure và viết code gọi bằng C# vì làm vậy nhanh hơn 30 milisecond khi gọi 10.000 query. Nói chung khách hàng là thượng đế và chúng ta phải nghe theo.

9. Khi nhảy việc cũng không đơn giản, có khi phải bắt đầu lại từ đầu

Lương bạn hiện không cao trong khi lương tụi bạn đã gấp hai mình. Đề nghị sếp tăng lương thì sao, liệu sếp có chịu tăng cho mình gấp rưỡi không chứ đừng nói gấp hai. Tại sao không nhảy việc khi vừa có thể có lương cao hơn lại có thể học hỏi nhiều cái mới và làm quen nhiều con người mới. Nhưng khi nhảy việc là lúc bạn phải chấp nhận làm lại từ đầu. Có thể bạn có nhiều kinh nghiệm từ công ty cũ nhưng sang môi trường mới sẽ không có đất để dụng võ. Và khi chưa biết gì hết thì bạn sẽ là một newbie (dân tay mơ) và chấp nhận làm lại từ con số không. Vì vậy, theo tôi, nếu tìm được công việc mới lương gấp rưỡi trở lên thì hãy nhảy, còn không ở lại cho lành và chờ thời cơ.

10. Rất khó để tự kinh doanh riêng về IT

Tỉ lệ thất bại cao của các công ty IT mới thành lập đã nói lên điều này. Nếu bạn làm IT khi muốn mở một công ty làm phần mềm thì rất khó. Một trong những khó khăn lớn nhất là sự cạnh tranh. Bạn sẽ khó kiếm được project từ những khách hàng lớn khi công ty của bạn chưa hề có tên tuổi hoặc không có công ty mẹ đỡ đầu. Nếu chấp nhận làm dự án nhỏ thì có vô khối công ty đã làm như vậy. Những công ty may mắn sống sót nhờ vào dạng những project nhỏ này họ có thể thực hiện website trong một tuần nhờ tái sử dụng những cái đã có từ project cũ và chúng ta sẽ khó cạnh tranh mỗi khi kinh nghiệm tổ chức và kinh doanh là con số 0. Giỏi lập trình không có nghĩa là giỏi quản lý, và càng không có nghĩa là giỏi kinh doanh nên làm công ty về IT không hề đơn giản. Và khi không có project nào trong khi phải nuôi đội quân cỡ năm người, cộng với trả tiền điện, tiền mặt bằng trong ba tháng là bạn phải nghĩ đến chuyện giải tán.

Đó là 10 trong khá nhiều những khó khăn, thiệt thòi, gian khổ của ngành IT. Làm IT không đơn giản và không sướng chút nào, càng không dễ làm giàu. Thế nên những ai nghĩ làm IT sướng và lương cao thì nên xem lại và cân nhắc nếu như đang chọn nghề cho mình. Đây là những ý kiến chủ quan của tôi, có thể có nhiều ý kiến trái ngược và bổ sung khác nên rất mong được sự chia sẻ từ các bạn. Mọi comment khen ngợi, chửi bới đều hoan nghênh.

Theo Tuổi trẻ/Blogger Thoại Nguyễn

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2009

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế ?

41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái
Không có dân tộc nào trên TG này chịu nhiều đau thương như người DO Thái.

Xin trích dẫn 1 bài viết sau đây về người Do Thái:

Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế

Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ....

Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...

- Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.
George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới...

Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.

Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người A Rập xung quanh ...


Nguyên nhân do đâu?

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.

Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.

Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.

Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.

Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm.

Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.

Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.

Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.

Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).

Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái. Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

Kinh Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng nó để giúp kẻ khác ... Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình” nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái, bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.

Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.

Người Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ. Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …

Muốn làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh, của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.

Tuy thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình. Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay: tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.

Kinh Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:

- Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
- Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
- Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
- Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
- Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;
- Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
- Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…

So sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).

Từ sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất trên hầu hết các hoạt động của loài người. Đồng thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của phương Đông trong quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân lịch sử cực kỳ phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và bây giờ đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.

Nguồn tác giả:Nguyễn Hải Hoành
Đông Tác

Boss

At the beginning

Boss: Be good, you will be fine.

www.haynhat.com


After one week

Boss: Need to work harder!!

Hình ảnh


After one month

Boss: Need to work harder for the company!

Hình ảnh


After one quater

Boss: I've told u to work harder…did u hear me!!!??

10 câu nói bất hủ của Bill Gates

Trước khi về hưu vào tháng 7/2008, Bill Gates đã đưa ra 10 lời khuyên dành cho các bạn thanh niên trên con đường lập nghiệp. Biết đâu nhờ học hỏi những lời khuyên bổ ích này, một ngày nào đó bạn sẽ trở thành một Bill Gates thứ hai?

1. “Cuộc sống vốn không công bằng - Hãy tập quen dần với điều đó.”
->
Thế giới không bao giờ công bằng. Bạn biết điều này chứ? Bạn không bao giờ có thể thay đổi cả thế giới. Sự bất công luôn tồn tại trong xã hội hiện tại, vì thế hãy cố gắng thích nghi.

2. “Không ai quan tâm đến lòng tự trọng của bạn đâu. Mọi người chỉ trông đợi bạn đạt được điều gì đó trước khi bạn cảm thấy hài lòng về bản thân.”
->
Lòng tự trọng thái quá có thể sẽ gây khó khăn cho công việc của bạn. Đừng quá đề cao lòng tự trọng của mình vì điều người ta quan tâm là bạn đạt được gì, chứ không phải là lòng tự trọng.

3. “Bạn sẽ không thể kiếm được 40.000 USD/năm ngay sau khi tốt nghiệp trung học. Bạn cũng không là một ông sếp lớn có điện thoại gắn trên ô tô cho đến khi bạn kiếm được hai thứ đó.”
->
Thường thường, bạn không thể giàu có nếu chỉ vừa mới tốt nghiệp trung học. Tuy nhiên, để trở thành một nhà quản lý cấp cao, bạn cần có cả hai: bằng tốt nghiệp trung học và tiền bạc.

4. “Nếu bạn nghĩ rằng giáo viên của mình thật hắc ám thì hãy đợi đến khi bạn làm việc dưới trướng một ông chủ. Rồi bạn sẽ thấy với ông ta thì không có khái niệm nhiệm kỳ nắm quyền.”
->
Đừng than vãn rằng sếp của bạn khó tính quá. Khi ngồi trên ghế nhà trường, lúc gặp khó khăn trong học tập thì có giáo viên giúp đỡ bạn. Tuy nhiên, nếu lúc đó bạn lại cảm thấy mọi khó khăn bạn gặp phải đều do những yêu cầu quá nghiêm khắc từ phía giáo viên, thì bạn đừng nên đi làm. Đơn giản là vì nếu không có những yêu cầu nghiêm khắc từ phía công ty, thì chắc chắn bạn sẽ không làm gì và nhanh chóng thất nghiệp. Và lúc này cũng sẽ không có ai giúp đỡ bạn cả.

5. “Nếu như bạn làm rối tung mọi chuyện lên thì đó không phải lỗi của bố mẹ bạn, thế nên đừng có mà ta thán về lỗi lầm của bạn, hãy rút kinh nghiệm từ chúng.”
->
Đừng quy thất bại của bạn cho định mệnh. Tất cả những gì bạn cần hiện giờ là giữ bình tĩnh và bắt đầu lại từ đầu.

6. “Trước khi bạn ra đời, bố mẹ của bạn đã chẳng "đáng chán" như bây giờ. Bố mẹ đã trả những hoá đơn của bạn, giặt giũ quần áo bạn sạch sẽ và lắng nghe bạn kể xem bạn sành điệu như thế nào. Vì vậy trước khi cằn nhằn bố mẹ điều gì thì hãy dọn dẹp buồng ngủ của bạn cho ngăn nắp đi đã.”
->
Bạn nên thể hiện lòng biết ơn của mình với bố mẹ vì đã dành phần lớn cuộc đời nuôi bạn khôn lớn. Sự “cổ lổ sĩ” của bố mẹ bạn ngày nay là cái giá họ phải trả cho sự lớn khôn của bạn.

7. “Ở trường học có thể không có người thắng kẻ thua nhưng ở trường đời thì không phải vậy. Ở một số trường học người ta còn hủy bỏ những điểm rớt và cho bạn cơ hội để bạn giành điểm cao. Trong cuộc sống thực không bao giờ có chuyện như thế đâu.”
->
Hãy tự nhủ rằng bạn luôn có thể trở thành người đứng đầu, như vậy bạn sẽ có nhiều động lực hơn để phấn đấu cho sự nghiệp của mình.

8. “Cuộc sống không được chia thành những học kỳ. Bạn cũng chẳng có mùa hè để nghỉ ngơi và rất ít ông chủ nào quan tâm và giúp bạn tìm ra cơ hội này. Hãy tự làm điều mình muốn trong thời gian nhàn rỗi của bạn.”
->
Đừng luôn ngóng chờ các ngày nghỉ lễ, nếu không bạn sẽ bị tụt hậu so với đồng nghiệp của mình. Sự tụt hậu này đồng nghĩa với sự đào thải và thất nghiệp.
9. “Truyền hình không phải là cuộc sống thực. Trong cuộc sống, người ta phải biết rời khỏi quán cà phê giải trí để đi làm việc.”
->
Ai cũng thích xem phim truyền hình. Tuy nhiên, bạn không nên xem quá nhiều vì đó không phải là cuộc sống của bạn và tư tưởng của bạn sẽ bị chúng ảnh hưởng. Cuộc sống của bạn nên do bạn quyết định.

10. “Hãy hòa nhã với những kẻ dở hơi. Ai biết được ngày sau và khi đó bạn có thể phải làm việc cho một kẻ như vậy.”

->
Bạn nên hòa nhã với mọi người. Trong cuộc sống luôn xảy ra những điều bạn không muốn chút nào. Hãy cởi mở với sếp và đừng nói xấu sau lưng họ vì nó sẽ chẳng giúp ích gì cho bạn đâu.
(Theo Vietnamworks)

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2009

Hình vui: Pó tay ! Việt Nam :))










Người nhện này đã từng được lên báo:




Bợm này chắc quắc cần câu rồi, phải cột dây lại để chở:










Hiểu gì không các bác?